CÁC CHÍNH SÁCH ĐẶC BIỆT HỖ TRỢ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, CHUYỂN ĐỔI SỐ ĐỂ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG HỢP TÁC XÃ NUÔI BIỂN KHÁNH HÒA

|

Liên hiệp quốc đã xác định Thế kỷ XXI là thế kỷ của biển cả và đại dương, trong đó mục tiêu cao nhất là nhân loại sẽ phát triển mạnh sự nghiệp canh tác biển và đại dương – cánh đồng cuối cùng của hành tinh. Nội hàm của canh tác biển (hay nuôi biển) rất rộng, không chỉ nuôi trồng các loại hải sản đa dạng ở trên mặt nước, trong các tầng nước, trên nền và cả trong nền đáy biển, mà còn bao gồm các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, tôn tạo các hệ sinh thái biển, gìn giữ môi trường biển trong sạch, làm giàu thêm các nguồn lợi sinh vật biển, cải thiện sinh kế và nâng cao đời sống cho người dân vùng biển, thúc đẩy phát triển nuôi biển theo hướng xanh, tuần hoàn, cácbon thấp và có khả năng chống chịu cao với biến đổi khí hậu, đồng thời phát triển văn hóa biển tiên tiến, xã hội biển văn minh…

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NUÔI BIỂN

Tiêu chí quan trọng nhất của nuôi biển là phải bảo đảm “phát triển bền vững” về các phương diện kinh tế, xã hội và môi trường, hệ sinh thái. Các đề án phát triển bền vững nuôi biển tại mỗi khu vực biển phải đạt được các chỉ tiêu mong muốn về hiệu quả kinh tế, cải thiện xã hội theo hướng văn minh và hạn chế tác động xấu đến môi trường, hệ sinh thái.

Việt Nam đã thiết lập nền tảng vững chắc để phát triển bền vững nuôi biển từ luật đến nghị định và các quy hoạch cấp quốc gia mang tính chiến lược. Luật Thủy sản (sửa đổi) năm 2017, có hiệu lực từ 01/01/2019, đã đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho việc chuyển từ “Nghề cá Nhân dân” sang “Nghề cá Công nghiệp Bền vững”. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 26/2019/NĐ-CP ngày 08/3/2019 với các điều khoản chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Thủy sản.

Tại Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã nêu rõ phải giảm sản lượng khai thác thủy sản còn 2,8 triệu tấn, tăng cường phát triển nuôi trồng thủy sản đạt sản lượng đến 7,0 triệu tấn vào năm 2030.

Quốc hội Khóa XV thông qua Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050 tại Nghị quyết số 139/2024/QH15 ngày 28/6/2024 và Thủ tướng đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ tại Quyết định số 1117/QĐ-TTg ngày 07/10/2024. Đây là những văn bản tổng thể, tích hợp đa ngành, mang tính khung, động và mở, nhằm dẫn dắt, cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xây dựng Việt Nam thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn.

Về nuôi biển, Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050, nêu rõ: “Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển theo định hướng sản xuất hàng hóa; khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản quy mô công nghiệp ở các vùng biển mở. Tiếp tục phát triển nuôi biển hiệu quả các đối tượng chủ lực và các loài thủy sản có giá trị kinh tế, dựa trên công nghệ mới, tiên tiến gắn với bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tận dụng tiềm năng khu vực biển, phát triển nuôi trồng thủy sản trong các vùng xâm nhập mặn mới hình thành do biến đổi khí hậu không thể tiếp tục sản xuất nông nghiệp”.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 1664/QĐ-TTg ngày 04/10/2021 phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với quan điểm đầu tư phát triển nuôi biển thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, đóng góp quan trọng về sản lượng, giá trị và chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong toàn bộ ngành thủy sản, lấy doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt để đầu tư phát triển nuôi biển quy mô công nghiệp ở vùng biển xa; kết hợp với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên biển vững mạnh, tham gia bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo. Mục tiêu đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000ha, kim ngạch xuất khẩu đạt 0,8 - 1 tỷ USD; đến năm 2030, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 – 2,0 tỷ USD.

Trong việc thực hiện quy hoạch nuôi biển cần chú ý áp dụng tiếp cận kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, để có thể tận dụng tốt nhất tài nguyên biển để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, trong khi vẫn giảm tác động xấu đến môi trường và xã hội. Thí dụ: có thể phát triển nuôi biển hữu hiệu song song với phát triển du lịch, điện gió, dầu khí, vận tải biển…, phát triển nuôi biển tự nhiên trong các khu bảo tồn các hệ sinh thái, hay thậm chí trong các khu vực dành cho mục đích quốc phòng – an ninh vẫn có thể có những hình thái hoạt động nuôi biển.

Khánh Hòa cần áp dụng những giải pháp thực tế để bảo đảm quyền của người dân tiếp cận không gian biển và được hưởng lợi từ nuôi biển một cách bền vững, cải thiện sinh kế, nâng cao mức sống cho cộng đồng dân cư, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến sinh kế truyền thống của họ. Phải tạo điều kiện để cộng đồng cư dân địa phương tham gia ý kiến vào quy hoạch ngay từ đầu và tham gia thực hiện sau đó.

LỢI THẾ VÀ THÁCH THỨC PHÁT TRIỂN NUÔI BIỂN KHÁNH HÒA

Sau khi hợp nhất với Ninh Thuận, tỉnh Khánh Hòa mới sẽ có diện tích hơn 8.500 km2, dân số hơn 2,2 triệu người và 65 đơn vị hành chính cấp xã. Khánh Hòa cũng trở thành tỉnh có đường bờ biển dài nhất cả nước, với gần 500 km (Khánh Hòa 385 km, Ninh Thuận 105 km), UBND tỉnh quản lý vùng biển trong 6 hải lý với diện tích gần 5.000 km2, chưa kể vùng biển quần đảo Trường Sa, và là địa phương có tiềm năng to lớn nhất để phát triển ngành nuôi biển, với những lợi thế nổi bật sau:

  • Vùng biển có điều kiện tự nhiên rất tốt, có nguồn giống tự nhiên phong phú, đặc biệt là tôm hùm và nhiều loài hải sản giá trị cao khác.
  • Là địa phương tập trung và hội tụ những cơ sở nghiên cứu, phát triển và đào tạo khoa học công nghệ nuôi biển với đội ngũ cán bộ tinh túy nhất, có trình độ cao nhất cả nước, như Viện Hải dương học, Đại học Nha Trang, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3,…
  • Người dân Khánh Hòa có nhiều kinh nghiệm trong nuôi trồng thủy sản trên biển và đang trong quá trình chuyển đổi mạnh từ khai thác sang nuôi biển công nghệ cao; có những mô hình và đội ngũ cán bộ công nhân nuôi biển công nghiệp tầm cỡ khu vực như Công ty Australis, Trung tâm Nuôi biển công nghệ cao của Viện nghiên cứu NTTS 1, Công ty Cổ phần Mực nhả Biển Đông.
  • Khánh Hòa đã xác định phát triển nuôi trồng thủy sản biển, đặc biệt nuôi biển công nghệ cao là một mũi nhọn trong phát triển kinh tế biển. Các cấp chính quyền tỉnh Khánh Hòa rất quan tâm và khuyến khích phát triển các sản phẩm nuôi biển có giá trị kinh tế cao và được thị trường ưa chuộng. Ngành nuôi biển đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và cả nước, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu.

Bên cạnh những lợi thế, ngành nuôi biển ở Khánh Hòa vẫn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức:

  • Phần lớn hoạt động nuôi biển diễn ra với quy mô nhỏ lẻ, tự phát, chủ yếu ở vùng ven bờ, với công nghệ thủ công truyền thống, vật liệu làm lồng bè nuôi chủ yếu bằng gỗ tự nhiên, độ bền thấp và không ổn định.
  • Các vùng nuôi biển phát triển tự phát, mật độ lồng bè nuôi quá cao, gấp 3-5 lần so với quy hoạch, làm phá vỡ cân bằng sinh thái; mật độ nuôi trong lồng quá dày dẫn đến nhiều hệ lụy; người nuôi thiếu vốn đầu tư, rủi ro và chi phí sản xuất cao.
  • Công tác quản lý con giống (nhất là về chất lượng và bệnh) chưa hiệu quả; cung ứng giống phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, với tình trạng nhập lậu giống thủy sản chưa kiểm soát. Riêng tôm hùm, do chưa chủ động được công nghệ sinh sản nhân tạo, nguồn giống tôm hùm chủ yếu là nhập từ các nước trong khu vực.
  • Việc sử dụng thức ăn tươi sống (cá tạp, ốc, nhuyễn thể, phế phụ phẩm chế biến) gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; vệ sinh lồng bè không đảm bảo, ít sử dụng biện pháp diệt khuẩn; người nuôi thường không báo cáo tình hình dịch bệnh và tự ý mua kháng sinh y tế để điều trị, gây ra hiện tượng kháng kháng sinh.
  • Chưa thiết lập được chuỗi giá trị cho sản xuất nuôi biển do chưa hình thành được quan hệ hợp tác ngang và dọc, thị trường cung ứng đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đều không ổn định, giá cả bấp bênh, gây rủi ro cho người nuôi.
  • Việc quy hoạch các vùng nuôi biển còn chưa được thực hiện dựa trên cơ sở khoa học vững chắc; việc giao khu vực biển cho dân nuôi biển chưa thực hiện được, do nhiều thủ tục hành chính phức tạp; việc quản lý vùng nuôi gặp nhiều khó khăn do thiếu nhân lực, tài lực, trang thiết bị và phương tiện, dẫn đến tình hình môi trường và dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, chưa kể rủi ro do thiên tai, bão lũ gây thiệt hại lớn cho người nuôi.

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NUÔI BIỂN KHÁNH HÒA

Để khắc phục những khó khăn và phát triển bền vững ngành nuôi biển ở Khánh Hòa trở thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, cần có những định hướng và giải pháp sau:

  • Ưu tiên quy hoạch không gian biển và ven bờ cho phát triển nuôi biển, nhất là nuôi biển công nghiệp quy mô lớn, theo phương thức nuôi công nghiệp hiện đại, quy mô lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
  • Đẩy mạnh cải cách đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quá trình thẩm định hồ sơ đề nghị giao khu biển lâu dài cho dân; kiến nghị cấp sổ quyền sử dụng khu vực biển lâu dài (Sổ Xanh). Xem xét chỉ giao khu vực biển lâu dài cho tổ chức kinh tế (doanh nghiệp, HTX) không giao cho cá nhân, song song với việc đẩy mạnh liên kết các hộ dân thành tổ hợp tác, hợp tác xã và tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị.
  • Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật về nuôi trồng thủy sản và tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các cơ sở nuôi biển, sản xuất, kinh doanh giống, thức ăn và sản phẩm xử lý môi trường; tăng cường kiểm tra, đánh giá, đánh giá, công nhận các cơ sở nuôi biển, sản xuất giống thủy sản;
  • Ứng dụng HDPE và composite là các vật liệu chủ đạo cho nuôi biển công nghiệp; kiểm soát mật độ nuôi tại các vùng biển kín để giảm ô nhiễm môi trường; phát triển các mô hình nuôi biển đa dưỡng (IMTA) theo tiếp cận kinh tế tuần hoàn.
  • Cần bổ sung nguồn ngân lực và tài chính cho các hoạt động phục vụ công tác cấp phép nuôi trồng thủy sản, giao khu vực biển. Đẩy mạnh việc chuyển đổi số trong công tác quản lý nhà nước về giao khu biển để nuôi trồng thủy sản.
  • Kêu gọi các tập đoàn lớn và doanh nghiệp mạnh xây dựng các cụm công nghiệp nuôi biển, đầu tư cơ sở hạ tầng, tổ chức cung ứng-tiêu thụ để phát triển nuôi biển ra xa bờ, giải quyết các vấn đề về môi trường, vốn, dịch vụ và kỹ thuật.
  • Kết hợp mô hình nuôi biển kết hợp du lịch trải nghiệm và điện gió, đóng tàu, vận tải biển để tạo ra nhiều giá trị gia tăng.

ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN NUÔI BIỂN CÔNG NGHỆ CAO Ở KHÁNH HÒA

Nghị quyết số 09/NQ-TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã chỉ ra nuôi trồng thủy sản của tỉnh sẽ phát triển theo hướng nuôi biển công nghệ cao, nhằm sử dụng hiệu quả lợi thế, tiềm năng, điều kiện tự nhiên để góp phần ổn định kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên vùng biển, đảo của Tổ quốc, gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu phát triển với bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh.

Để chủ động thực hiện Nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 231/QĐ-TTg ngày 24/01/2025, phê duyệt Đề án thí điểm phát triển nuôi biển công nghệ cao tại Khánh Hòa. Đây là một bước đi quan trọng, nhằm tạo ra mô hình mới, mang tính đột phá cho quá trình chuyển đổi từ nghề nuôi biển thủ công truyền thống sang ngành công nghiệp nuôi biển theo hướng bền vững, chắc chắn sẽ có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế biển của Khánh Hòa nói riêng và cả nước nói chung. Đề án không chỉ tập trung vào việc tăng sản lượng nuôi biển mà còn chú trọng đến việc áp dụng công nghệ tiên tiến, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, hướng tới một nền kinh tế biển xanh.

Đề án tập trung vào các đối tượng có giá trị kinh tế cao, tiềm năng phát triển lớn và có thị trường tiêu thụ tốt như cá chẽm, cá chim vây vàng, tôm hùm, hàu Thái Bình Dương và các loại rong biển, phù hợp với điều kiện tự nhiên. Đề án còn khuyến khích phương thức nuôi đa loài tích hợp (IMTA) để tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực. Vùng biển đến 3 hải lý sẽ áp dụng công nghệ lồng nuôi bằng các vật liệu mới (HDPE, FRP...), kết hợp với các công nghệ hỗ trợ như cho ăn tự động, giám sát môi trường; vùng biển từ 3 đến 6 hải lý sẽ sử dụng lồng tròn nổi, các công nghệ thu hoạch và sơ chế cá khi còn đang sống ngay sau thu hoạch tại các tàu chuyên dụng trên biển, bằng các hệ thống máy móc cơ giới, giảm tác động thủ công,  tạo ra sản phẩm “cá sạch”, được bảo quản ở nhiệt độ thấp trước khi đưa vào bờ chế biến sâu.

Đề án đề xuất các chính sách hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và đào tạo cho các hộ nuôi và doanh nghiệp chuyển đổi sang vật liệu mới, với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận công nghệ tiên tiến, giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính bền vững.

Đề án tập trung vào việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất giống, chọn giống, quản lý chặt chẽ nguồn giống thủy sản tự nhiên, và phát triển thức ăn công nghiệp cho các đối tượng nuôi; chú trọng tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, từ con giống, vật tư đầu vào, đến nuôi thương phẩm, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ đóng vai trò hạt nhân trong chuỗi, đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất; đồng thời lồng ghép hoạt động xúc tiến thương mại các sản phẩm nuôi biển vào chương trình xúc tiến thương mại của tỉnh, xây dựng thương hiệu, bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc thù.

Đề án khuyến khích các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác để tăng cường sự liên kết, hỗ trợ nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm an toàn sinh học và bảo vệ môi trường; không chỉ giúp các hộ nuôi nhỏ lẻ có thể tiếp cận được các nguồn lực mà còn tạo ra sự đồng thuận trong việc phát triển bền vững. Đề án dự kiến sử dụng cả nguồn vốn từ hợp tác công tư và ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước sẽ tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi, trong khi đó, nguồn vốn từ hợp tác công tư sẽ được ưu tiên cho các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ.

Đề án chú trọng đào tạo nghề, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho người lao động, tập trung vào an toàn lao động trên biển và đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xã. Đề án cũng khuyến khích hợp tác với các trường, cơ quan và tổ chức hiệp hội để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Đề án khuyến khích hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế để nghiên cứu công nghệ nuôi, thức ăn, con giống, đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ nuôi lồng biển xa bờ; nhấn mạnh việc áp dụng các thành tựu của công nghệ 4.0 để nâng cao hiệu quả quan trắc môi trường, cảnh báo sớm tác động môi trường và phòng chống dịch bệnh trên các đối tượng nuôi biển.

Đề án quy định rõ cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và UBND tỉnh Khánh Hòa trong việc triển khai, giám sát và giải quyết các vấn đề phát sinh, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ và hiệu quả trong việc thực hiện đề án. Tuy nhiên, việc thực hiện chắc chắn phải vượt không ít khó khăn. UBND tỉnh Khánh Hòa đóng vai trò chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành để triển khai đề án. Tỉnh cũng có trách nhiệm phê duyệt vị trí, tọa độ, diện tích các khu vực nuôi biển, xây dựng tiêu chí, phân loại lồng bè và giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Đề án mang lại cơ hội lớn cho sự phát triển của ngành nuôi biển Khánh Hòa và cả Việt Nam, tuy nhiên, cũng không ít thách thức như vấn đề vốn đầu tư, công nghệ, đào tạo nhân lực và quản lý môi trường. Để thành công, cần có sự đồng lòng của các cấp chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc đầu tư nhân rộng kết quả và kinh nghiệm của mô hình thí điểm, không chỉ về tăng số lượng mà đặc biệt là về chất lượng và trình độ công nghệ của cả chuỗi giá trị.

HỢP TÁC XÃ – LỰC LƯỢNG CHỦ CÔNG PHÁT TRIỂN NUÔI BIỂN

Cộng động xã hội của các cư dân vùng ven biển là người lãnh nhận hiệu quả và hậu quả của các chính sách phát triển nuôi biển. Vì vậy, phải biến nguyện vọng chính đáng và hoài bão của các cộng đồng cư dân ven biển trở thành động lực phát triển.

Trong thực tế ở Việt Nam hiện nay và trong ít nhất 10 năm tới, các hợp tác xã (HTX) vẫn sẽ là lực lượng chủ công hùng hậu nhất để thực hiện các đề án nuôi biển. Tuy nhiên, tính liên kết trong nội bộ HTX còn yếu, năng lực nội tại của HTX còn kém, mô hình tổ chức lỏng lẻo, trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã còn hạn chế, hiệu quả hoạt động chưa cao, năng lực cạnh tranh thấp. Phần lớn HTX có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi hoạt động hẹp, lợi ích mang lại cho thành viên thấp. Đây là nút thắt cần phải sớm được tháo gỡ bằng nhiều giải pháp đột phá về cơ chế, chính sách, giúp khu vực HTX phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới.

Kinh tế hợp tác và các hợp tác xã (HTX) là đối tượng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 về việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. Ngày 20/6/2023, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XV đã chính thức thông qua Luật Hợp tác xã số 17/2023/QH15, gồm 12 Chương, 115 Điều, sửa đổi toàn diện Luật Hợp tác xã năm 2012 với nhiều điểm mới.

Ngày 22/7/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1318/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021-2025. Mục tiêu là phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năng động, hiệu quả góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới và bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, phấn đấu đến năm 2025 cả nước có trên 3.000 HTX ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông sản; tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp và HTX, phấn đấu có khoảng 35% HTX nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị bằng các hợp đồng cụ thể.

CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ HTX NUÔI BIỂN CÔNG NGHỆ CAO

Để đạt được các mục tiêu đề ra, Khánh Hòa cần xây dựng giải pháp cụ thể để phát triển mạnh lực lượng HTX tiếp thu nuôi biển công nghệ cao: tuyên truyền, nâng cao nhận thức; hoàn thiện thể chế, xây dựng môi trường sản xuất, kinh doanh; củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã; hỗ trợ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể; tăng cường vai trò, trách nhiệm của Liên minh HTX tỉnh và các đoàn thể, hội, hiệp hội trong phát triển thành phần kinh tế HTX; tăng cường hợp tác quốc tế, huy động các nguồn lực xã hội tham gia thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể.

Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA) xin kiến nghị một số chính sách cụ thể sau đây nhằm đưa lực lượng HTX Khánh Hòa trở thành đội ngũ tiên phong và chủ công trong phát triển bền vững nuôi biển theo phương thức công nghiệp:

  1. Quy hoạch phát triển nuôi biển theo phương thức công nghiệp: Để khắc phục tình trạng phát triển manh mún, tự phát trong nuôi biển hiện nay, đề nghị UBND tỉnh nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển theo phương thức tổ chức sản xuất công nghiệp với các nội hàm chủ yếu sau đây:
  2. a) Phân vùng sản xuất tập trung cho từng nhóm đối tượng nuôi trồng cụ thể (cá biển, nhuyễn thể, rong biển, động vật đáy,…) căn cứ trên điều kiện tự nhiên của các khu vực biển, tạo vùng sản xuất khối lượng hàng hóa lớn, đồng nhất về chất lượng, được chứng nhận theo tiêu chuẩn quốc tế về phát triển bền vững (GlobalGAP, ASC);
  3. b) Ưu tiên quy hoạch biển và vùng bờ cho việc thiết lập các cụm công nghiệp nuôi biển (CCNNB). CCNNB là khu vực sản xuất thủy sản tập trung có ranh giới địa lý xác định, cung cấp hạ tầng kỹ thuật và các dịch vụ cho sản xuất nuôi biển, được các doanh nghiệp lớn đầu tư theo phương thức chuyên nghiệp, nhằm thu hút các doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác thuê hạ tầng để đầu tư sản xuất nuôi biển.
  4. c) Ưu tiên quy hoạch theo hướng tích hợp nuôi biển với du lịch, điện gió và các ngành kinh tế biển khác, để có thể tận dụng và phát huy thế mạnh tổng thể đa ngành, khai thác và sử dụng tối đa tiềm năng không gian biển; đồng thời kết hợp với quốc phòng, an ninh, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo của Tổ quốc.
  5. d) Gắn việc quy hoạch không gian biển và phát triển nuôi biển Khánh Hòa với quá trình số hóa việc quản lý các vùng biển, khu vực biển cụ thể và việc cấp mã số vùng nuôi biển, phục vụ việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm hải sản nuôi.
  6. Hoàn thiện thủ tục pháp lý giao khu vực biển lâu dài cho dân: Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo dứt điểm việc giao khu vực biển cụ thể cho tổ chức của dân sử dụng cho nuôi biển theo Nghị định 11/2021/NĐ-CP, đã được sửa đổi bổ sung theo Nghị định 65/2025/NĐ-CP ngày 12/3/2025 của Chính phủ với các giải pháp sau đây:
  7. a) Giao Sở Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ, xin ý kiến của các cơ quan Nhà nước hữu quan và trực tiếp thực hiện thủ tục giao biển cho tổ chức pháp nhân nuôi biển;
  8. b) Xem xét bãi bỏ thủ tục báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đối với các hoạt động nuôi biển ít có tác động xấu đến môi trường, không tạo ra chất thải có hại, không sử dụng thức ăn (thí dụ: các loài nhuyễn thể, động vật đáy, trồng rong); quy định chủ đầu tư chỉ cần có cam kết bảo vệ môi trường, không cần báo cáo ĐTM.
  9. c) Xem xét áp dụng cách tính phí hợp lý cho việc sử dụng khu vực biển giao cho HTX và doanh nghiệp để nuôi thủy sản, bảo đảm nguyên tắc hợp lý, thực tế, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và ngư dân theo các nguyên tắc:

- Chỉ tính phí đối với phần diện tích thực tế được sử dụng để nuôi biển chứ không phải toàn bộ diện tích được giao;

- Quy định những mức phí khác nhau cho các vùng nuôi có điều kiện khác nhau, đối tượng nuôi khác nhau;

- Xem xét miễn phí một số năm đầu (thí dụ 5 năm), kể từ lúc giao khu vực biển;

- Áp dụng việc giao khu vực biển để nuôi trồng hải sản không thu phí theo quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Thủy sản 2017.

  1. d) Đề nghị UBND tỉnh kiến nghị Chính phủ cấp “Sổ Xanh” xác nhận quyền sử dụng khu vực biển lâu dài (tối đa 50 năm) cho các tổ chức nuôi biển (tương tự như “Sổ Đỏ” đối với đất) và xây dựng Nghị định xác lập quyền tài sản của quyền sử dụng lâu dài khu vực biển được giao để nuôi trồng hải sản, tạo căn cứ pháp lý cho việc định giá một cách hợp pháp các tài sản đã đầu tư nuôi biển, để mua bảo hiểm, vay vốn ngân hàng, đấu giá, chuyển nhượng hay thừa kế; đồng thời bổ sung cơ chế hỗ trợ tài chính cho các đơn vị trực tiếp.
  2. e) Ưu tiên giao biển cho các HTX và doanh nghiệp - hai thành phần kinh tế trọng yếu, và là chủ thể tổ chức lại sản xuất để chuyển từ nuôi biển thủ công truyền thống sang nuôi biển thương mại bền vững hiện nay của Khánh Hòa và cả nước.
  3. g) Ban hành quy định về các điều kiện kỹ thuật cần thiết của các pháp nhân kinh tế để được giao quyền sử dụng khu vực biển lâu dài, bao gồm các điều kiện về tổ chức, đề án sản xuất kinh doanh, nhân lực và tài lực; ban hành quy chế xử lý vi phạm (nhắc nhở, cảnh cáo, thu hồi quyền sử dụng khu vực biển) đối với các pháp nhân vi phạm quy định bảo vệ môi trường, hệ sinh thái biển hoặc các quy định khác.
  4. Ban hành các quy chuẩn và tiêu chuẩn nuôi biển công nghiệp: Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp chặt chẽ với Sở Nông nghiệp và Môi trường đẩy nhanh việc xây dựng và ban hành các quy chuẩn địa phương cần thiết cho lĩnh vực nuôi biển, làm cơ sở pháp lý kỹ thuật cho quản lý Nhà nước và cho nhân dân thực hiện, đồng thời kiến nghị Bộ Nông nghiệp & Môi trường sớm xây dựng và ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam cần thiết cho nuôi biển theo phương thức công nghiệp ngay trong các năm 2025-2026.
  5. Xây dựng các cụm công nghiệp nuôi biển: Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng thí điểm một số CCNNB tại các vùng biển thích hợp của Khánh Hòa, xem đó là giải pháp đột phá, mang tính cách mạng, để đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, phát triển nuôi biển thành ngành kinh tế sản xuất hàng hóa quy mô lớn, với doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt, đóng góp quan trọng về sản lượng, giá trị vào việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất cho toàn ngành thủy sản. CCNNB gồm 2 bộ phận cấu thành, có quan hệ gắn kết mật thiết với nhau, là điều kiện tiên quyết để hình thành và hoạt động có hiệu quả:
  6. a) Cơ sở hạ tầng sản xuất thủy sản trên biển bao gồm: các công trình hạ tầng nổi (các vành khung lồng nổi; sàn thao tác nổi, sàn dịch vụ; cầu cập tàu; các công trình nổi phục vụ sinh hoạt chung như nhà điều hành, nhà ăn, nhà nghỉ, nhà vệ sinh, hệ thống đường đi nổi; các loại phao tiêu, biển báo); các công trình hạ tầng chìm (các loại neo; hệ thống dây liên kết; các hệ thống camera giám sát chìm;…); các hệ thống khác (cung cấp điện, nước ngọt; thu gom, bảo quản, xử lý chất thải rắn; chiếu sáng, thông tin liên lạc nội bộ và viễn thông; bảo vệ, đảm bảo an ninh; các công trình khác phục vụ hoạt động của cả cụm).
  7. b) Cơ sở hạ tầng dịch vụ tổng hợp trên bờ bao gồm: hạ tầng kỹ thuật và các cơ sở hậu cần dịch vụ nuôi biển (giặt lưới, cung ứng, lưới sợi, bao bì, vật tư, sửa chữa thiết bị, máy móc, dụng cụ chuyên dụng); các cơ sở sản xuất dịch vụ công nghiệp (cơ sở làm sạch, vỗ béo, sơ chế; cơ sở sản xuất nước đá, cấp đông, kho bảo quản lạnh đông; các nhà máy chế biến hải sản, nhà máy chiết xuất tinh chất); các cơ sở dịch vụ thương mại và tài chính chuyên nghiệp (chợ đầu mối; sàn đấu giá hải sản; chợ vật tư trang thiết bị nuôi biển; ngân hàng và các dịch vụ tài chính chuyên dụng); trung tâm chuyển giao công nghệ kỹ thuật và trung tâm đào tạo nguồn nhân lực nuôi biển công nghiệp; hạ tầng đô thị (khu dân cư cho gia đình chuyên gia; nhà nghỉ cho công nhân; nhà văn hóa, công viên); hạ tầng dùng chung (nhà điều hành, hệ thống an ninh, giao thông nội bộ, hệ thống cấp điện, chiếu sáng, thông tin liên lạc, viễn thông, cấp nước ngọt và nước biển; hệ thống xử lý chất thải…).
  8. Tổ chức đăng kiểm cơ sở và phương tiện nuôi biển: Trong tình hình chưa có cơ quan Nhà nước nào được phân công trách nhiệm kiểm định, kiểm tra an toàn kỹ thuật lồng bè, cấu trúc nổi phục vụ cho nuôi trồng hải sản trên biển, đăng ký, đăng kiểm cho các cơ sở, phương tiện nuôi biển, đề nghị UBND tỉnh tạm thời giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện việc này. Cơ quan đó cần liên hệ với Trung tâm Đăng kiểm tàu cá thuộc Cục Thủy sản và Kiểm ngư để được hướng dẫn và khẩn trương xây dựng trình ban hành các thủ tục tạm thời đăng ký, đăng kiểm cho các cơ sở nuôi biển, phương tiện nuôi trên biển.
  9. Bảo hiểm cho cơ sở nuôi biển: Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo việc tổ chức mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm cho các cơ sở và phương tiện nuôi trồng thủy sản và phục vụ nuôi trồng thủy sản trên biển. Trước mắt, cần thí điểm cơ chế bảo hiểm cho người lao động trên biển và bảo hiễm chỉ số bão theo đề xuất của Công ty Hillrige Việt Nam và Tập đoàn Bảo Minh, theo đó việc bồi hoàn căn cứ trên hợp đồng cụ thể với đối tượng mua bảo hiểm, căn cứ vào cấp bão và khoảng cách đến tâm bão; tiếp theo là việc bảo hiểm cho đầu tư và bảo hiểm vật nuôi.
  10. Tổ chức đào tạo nhân lực nuôi biển: Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Liên minh Hợp tác xã Khánh Hòa và các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp trong tỉnh tổ chức các chương trình đào tạo ngư dân nuôi biển công nghiệp. Trước hết đề nghị sử dụng “Bộ tiêu chuẩn Kỹ năng nghề Nuôi cá trên biển theo phương thức công nghiệp” đã được Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam và Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại TP.HCM tổ chức xây dựng. Có thể đề nghị Trường Đại học Nha Trang tổ chức đào tạo hệ trung cấp cho ngư dân nuôi biển theo phương thức tổ chức các khóa đào tạo tại chỗ, gồm nhiều học phần, kéo dài hai năm, với dung lượng 70% thực hành, 30% lý thuyết (như mô hình của Trường Cao đẳng Kinh tế, Kỹ thuật và Thủy sản). Về lâu dài, cần xây dựng chính sách hỗ trợ thường xuyên cho sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp cho nuôi biển công nghiệp về kỹ năng nghề và năng lực tổ chức quản lý.
  11. Ban hành các chính sách hỗ trợ nuôi biển của địa phương: Trong khi chờ Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định 67/2014/NĐ-CP, đề nghị UBND tỉnh Khánh Hòa nghiên cứu trình Hội đồng Nhân dân tỉnh những chính sách hỗ trợ đặc thù cho việc phát triển bền vững ngành nuôi biển, phù hợp với đặc điểm riêng có và chính sách của địa phương. Những chính sách đó bao gồm:
  12. a) Chính sách hỗ trợ một lần sau đầu tư dành cho tổ chức, cá nhân đầu tư mới cơ sở nuôi biển, cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá biển;
  13. b) Chính sách hỗ trợ bảo hiểm chỉ số bão đối với thủy sản nuôi trồng thủy sản trên biển; bảo hiểm rủi ro thiên tai đối với tài sản của cơ sở nuôi biển, cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống hải sản;
  14. c) Chính sách hỗ trợ mua bảo hiểm tai nạn cho lao động làm việc tại cơ sở nuôi biển;
  15. d) Chính sách hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề và kỹ năng quản lý cho các nguồn nhân lực nuôi biển công nghiệp.

Để đồng hành cùng tỉnh Khánh Hòa trong việc thực hiện các giải pháp nêu trên, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam xin đề xuất với UBND tỉnh, Liên minh HTX Khánh Hòa và các cơ quan hữu quan trong tỉnh một số nội dung hợp tác cụ thể sau đây:

  1. Hợp tác thành lập Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Nuôi biển tại Khánh Hòa;
  2. Hợp tác xây dựng và thực hiện Chương trình số hóa và Chương trình Xanh hóa nuôi biển công nghiệp Khánh Hòa.
  3. Hợp tác xây dựng các quy chuẩn và tiêu chuẩn địa phương về nuôi biển; các định mức kinh tế kỹ thuật cho các mô hình cơ sở nuôi biển công nghiệp.
  4. Hợp tác tổ chức các cuộc thi sáng tạo công nghệ, thiết kế chế tạo thiết bị phục vụ nuôi biển công nghiệp.
  5. Hợp tác tổ chức thử nghiệm và ứng dụng công nghệ, thiết bị, máy móc, dụng cụ tự động phục vụ các cơ sở HTX nuôi biển công nghệ cao.
  6. Hợp tác thiết lập bản đồ số các cơ sở nuôi biển công nghiệp Khánh Hòa với phần mềm tự cập nhật real-time
  7. Hợp tác thiết kế hệ thống thiết bị tự động đo thông số môi trường biển, số hóa hệ thống cảnh báo ô nhiễm biển và rác thải biển Khánh Hòa.

Để vượt qua khó khăn, thách thức, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp chính quyền, cơ quan chức năng, người nuôi và nhất là các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp để tạo ra các giải pháp có cơ sở khoa học, thiết thực và hiệu quả. Cần phải thay đổi tư duy, hướng đến phát triển bền vững, có trách nhiệm với môi trường và xã hội theo tiếp cận ESG, để ngành nuôi biển phát triển mạnh mẽ, mang lại giá trị kinh tế cao và góp phần bảo vệ môi trường biển. Nhà nước đổi mới tư duy quản lý theo hướng phục vụ sự phát triển. Doanh nghiệp và người nuôi cần tuân thủ các quy định của pháp luật, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Quan trọng nhất là phải cùng nhau hành động để đạt được mục tiêu chung là phát triển nuôi biển bền vững ở Khánh Hòa.

Nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 1884/KH-UBND, ngày 18/02/2025 của Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai thực hiện Quyết định số 231/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tăng cường phối hợp, trao đổi, hỗ trợ trong công tác, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã lĩnh vực nuôi biển công nghệ cao giai đoạn 2025 – 2029, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Khánh Hòa đã thống nhất đề ra Chương trình phối hợp giai đoạn 2025 – 2029 với nhiều nội dung thiết thực. 

Tin rằng với sự quan tâm của hệ thống các cơ quan Nhà nước, sự nỗ lực của các doanh nghiệp đầu mối và ngư dân, cộng đồng HTX nuôi biển Khánh Hòa sẽ có những bước phát triển vượt bậc trong tương lai, xây dựng được một ngành nuôi biển hiện đại, bền vững, mang lại giá trị kinh tế cao và góp phần bảo vệ môi trường biển./.

Thực hiện: H.H

Tin tức khác