KINH TẾ TẬP THỂ VÀ HỢP TÁC XÃ TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN MỚI Ở VIỆT NAM: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH VÀ ĐỊNH HƯỚNG MÔ HÌNH TẠI KHÁNH HÒA
Kinh tế tập thể (KTTT), với nòng cốt là hợp tác xã (HTX), luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định là một thành phần kinh tế quan trọng, tồn tại khách quan và có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của KTTT không chỉ dừng lại ở việc đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế quốc gia, mà còn thể hiện ở khả năng đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở, phát triển kinh tế của thành viên và góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
KTTT, HTX thúc đẩy sự hợp tác mang tính liên kết, bổ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, góp phần xóa đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho thành viên và phát triển cộng đồng. Mô hình này đặc biệt phù hợp với tâm lý sản xuất kinh doanh của người dân Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nơi các cá nhân hoặc hộ sản xuất nhỏ lẻ khó có thể tự mình thâm nhập thị trường lớn hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển KTTT, HTX là một nhiệm vụ cấp thiết, nhằm khai thác tối đa tiềm năng, nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế này.
Báo cáo chuyên đề này được thực hiện với mục tiêu chính là phân tích sâu sắc khung pháp lý và thực trạng phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã tại Việt Nam, đồng thời tổng hợp các kinh nghiệm quốc tế tiêu biểu để từ đó đề xuất một mô hình phát triển KTTT, HTX phù hợp, có tính khả thi cao để áp dụng tại Khánh Hòa.
Phạm vi của báo cáo bao gồm:
Phân tích các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan đến KTTT, HTX, đặc biệt là Luật Hợp tác xã 2023 và các văn bản hướng dẫn. Đánh giá thực trạng phát triển, những thành tựu đạt được cũng như các hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển KTTT, HTX ở Việt Nam. Nghiên cứu các mô hình và chính sách phát triển HTX thành công tại một số quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức và Canada, rút ra các bài học kinh nghiệm quý báu. Đánh giá đặc điểm inh tế - xã hội, tiềm năng và thách thức riêng của Khánh Hòa để làm cơ sở cho việc đề xuất mô hình.
Phương pháp tiếp cận của báo cáo dựa trên việc tổng hợp và phân tích dữ liệu từ các văn bản quy phạm pháp luật, báo cáo tổng kết của các cơ quan nhà nước, các nghiên cứu khoa học, bài viết chuyên ngành trong và ngoài nước. Đồng thời, báo cáo cũng sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu các mô hình và chính sách quốc tế với bối cảnh Việt Nam để đưa ra các đề xuất cụ thể, có căn cứ khoa học và thực tiễn.
Khung pháp lý cho kinh tế tập thể, hợp tác xã tại Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt với sự ra đời của Luật Hợp tác xã 2023.
- Luật Hợp tác xã 2023 (Luật số 17/2023/QH15): Có hiệu lực từ ngày 01/07/2024, Luật này là văn bản pháp lý quan trọng nhất quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể, phá sản và các hoạt động liên quan của tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Luật 2023 đã khắc phục nhiều bất cập của Luật HTX 2012, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và thông thoáng hơn cho sự phát triển của khu vực này. Các nội dung cơ bản của giấy đề nghị đăng ký thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bao gồm tên, địa chỉ, ngành nghề kinh doanh, vốn điều lệ, số lượng thành viên, thông tin người đại diện theo pháp luật và thông tin đăng ký thuế.10
- Nghị định 113/2024/NĐ-CP: Được Chính phủ ban hành vào ngày 12/09/2024 và có hiệu lực từ ngày 01/11/2024, Nghị định này quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã 2023. Nghị định cụ thể hóa các quy định về tiêu chí phân loại quy mô hợp tác xã, đối tượng, nội dung, mức hỗ trợ, nguồn kinh phí và tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước về hỗ trợ phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Ngoài ra, Nghị định còn quy định điều kiện hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần tham gia doanh nghiệp; điều kiện thực hiện hoạt động cho vay nội bộ và mức cho vay, giới hạn cho vay, lãi suất, xử lý rủi ro từ hoạt động cho vay nội bộ; giao dịch nội bộ và thu nhập từ giao dịch nội bộ; và xử lý tài sản khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã giải thể, phá sản.
- Nghị định 77/2019/NĐ-CP: Có hiệu lực từ 25/11/2019, quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động và chấm dứt hoạt động của tổ hợp tác, với các điều kiện cụ thể cho thành viên là cá nhân hoặc pháp nhân Việt Nam.10
- Nghị định 122/2021/NĐ-CP: Có hiệu lực từ 01/01/2022, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, bao gồm các hành vi vi phạm liên quan đến đăng ký, hoạt động, thông tin báo cáo, góp vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Sự đồng bộ của các văn bản pháp luật này, đặc biệt là Luật HTX 2023 và Nghị định 113/2024/NĐ-CP, được kỳ vọng sẽ tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, rõ ràng hơn, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của KTTT, HTX trong giai đoạn tới.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên định quan điểm phát triển KTTT là một xu thế tất yếu khách quan, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Đây là Chủ trương xuyên suốt, nhất quán, khẳng định KTTT là thành phần kinh tế quan trọng, phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, và cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò nền tảng trong nền kinh tế.
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới là một dấu mốc quan trọng, định hình tầm nhìn và mục tiêu phát triển cho khu vực này. Nghị quyết đặt ra mục tiêu cụ thể: đến năm 2030, cả nước có khoảng 45 nghìn hợp tác xã với 8 triệu thành viên; 340 liên hiệp hợp tác xã với 1,7 nghìn hợp tác xã thành viên. Đồng thời, đảm bảo trên 60% tổ chức kinh tế tập thể đạt loại tốt, khá, trong đó có ít nhất 50% tham gia liên kết theo chuỗi giá trị. Tầm nhìn đến năm 2045 là đảm bảo trên 90% tổ chức kinh tế tập thể hoạt động hiệu quả, trong đó có ít nhất 75% tham gia các chuỗi liên kết.
Các Chủ trương này nhấn mạnh việc chuyển đổi mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã một cách linh hoạt, phù hợp, đạt hiệu quả cao, tiết giảm chi phí, tối ưu nguồn lực, và huy động mọi nguồn lực để phát triển. Đồng thời, các chính sách hỗ trợ cần được đổi mới toàn diện theo hướng đơn giản, thông thoáng, công khai, minh bạch, thiết thực, hiệu quả, dễ tiếp cận và có tính kế thừa, chuyển tiếp. Đặc biệt, chính sách ưu tiên cho các tổ chức kinh tế tập thể trong tiếp cận các nguyên tắc thị trường, đảm bảo công bằng, bình đẳng, dân chủ giữa các hợp tác xã và tạo cơ hội, động lực cho các hợp tác xã tự lực vươn lên.
Trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, từng bước khắc phục tình trạng yếu kém kéo dài và khẳng định vai trò quan trọng của mình.
- Hỗ trợ đa dạng và đầu tư hạ tầng: KTTT, HTX đã nhận được sự hỗ trợ về nhiều mặt, bao gồm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ, tiếp cận vốn và đầu tư kết cấu hạ tầng. Cụ thể, từ năm 2013 đến năm 2022, khoảng 2.600 hợp tác xã nông nghiệp đã được hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng với tổng kinh phí hơn 2.800 tỷ đồng. Trong năm 2023, 11 tỉnh, thành phố đã triển khai hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho HTX nông nghiệp với tổng kinh phí khoảng 250 tỷ đồng, và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đang thực hiện dự án đầu tư khoảng 440 tỷ đồng cho các HTX.
- Đổi mới mô hình và tăng cường liên kết: Các hợp tác xã đã cơ bản chuyển đổi sang mô hình kiểu mới, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, gắn với cơ chế thị trường. Tính liên kết giữa các thành viên trong tổ chức kinh tế tập thể được tăng cường theo hướng cộng đồng, tương trợ để cùng phát triển. Đồng thời, hợp tác giữa thành phần kinh tế tập thể với các thành phần kinh tế khác cũng được mở rộng.
- Đóng góp kinh tế: Khu vực KTTT, HTX đóng góp trực tiếp gần 4% GDP cả nước và gián tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế hộ thành viên, vốn chiếm khoảng 30% GDP. Doanh thu của HTX tăng bình quân 5,6% so với năm 2021 và nhiều HTX nông nghiệp đạt doanh thu 350-400 triệu đồng/h Thu nhập của HTX phi nông nghiệp cũng tăng 6% so với cùng kỳ năm 2021.
- Phát triển sản phẩm và thị trường: Các sản phẩm của HTX ngày càng đa dạng, phong phú, nhiều sản phẩm có giá trị cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường. Trong Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), 38,1% trong số hơn 5.300 chủ thể là từ các hợp tác xã.
- Vai trò ở địa phương: Ở nhiều địa phương như Thái Nguyên, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Đồng Tháp, An Giang, Cà Mau, nhiều hợp tác xã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn phục vụ chế biến, xuất khẩu.
Các ví dụ điển hình về hiệu quả hoạt động tại Khánh Hòa cũng cho thấy sự chuyển biến tích cực. HTX Sản xuất rau an toàn Ninh Đông (thị xã Ninh Hòa) đã xây dựng mô hình chuỗi giá trị rau sạch an toàn VietGAP theo mô hình nhà kính, đạt doanh thu hơn 12 tỷ đồng vào năm 2024 và tạo việc làm ổn định cho hơn 30 lao động. Quỹ Tín dụng nhân dân Ninh Hòa hoạt động hiệu quả với dư nợ cho vay đạt hơn 98,7 tỷ đồng vào cuối năm 2024 và lợi nhuận lũy kế hơn 1,7 tỷ đồng. Các HTX vận tải tại như ASIA, Quyết Thắng, Hòa Bình cũng tạo việc làm ổn định cho hơn 2.000 lao động với doanh thu bình quân cuối năm 2022-2023 đạt hơn 350 tỷ đồng.
Mặc dù có nhiều thành tựu, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam vẫn đối mặt với không ít hạn chế và thách thức, khiến sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và mục tiêu đề ra.
- Hạn chế về năng lực và hiệu quả hoạt động: Tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng đóng góp của KTTT vào GDP còn thấp và có xu hướng giảm. Nhiều hợp tác xã vẫn hoạt động mang tính hình thức, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa thực sự hiệu quả và có khả năng lan tỏa. Năng lực sản xuất kinh doanh còn hạn chế, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hiệu quả hoạt động chưa cao, và mức độ liên kết còn thấp.
- Chất lượng nguồn nhân lực và quản lý: Trình độ cán bộ quản lý của các hợp tác xã nhìn chung còn nhiều hạn chế. Đến năm 2023, số cán bộ quản lý HTX đạt trình độ sơ, trung cấp chỉ chiếm gần 36%, và trình độ cao đẳng, đại học chỉ chiếm 23%. Kinh nghiệm trong quản lý, cạnh tranh thị trường và định hướng phát triển còn yếu.
- Khó khăn về tài chính và vốn: HTX gặp khó khăn trong việc tăng vốn và chưa có sự tách biệt rõ ràng giữa vốn của HTX với vốn của thành viên. Việc tiếp cận tín dụng còn rất khó khăn, với tổng dư nợ tín dụng đối với HTX, liên hiệp HTX chỉ đạt gần 6.300 tỷ đồng vào cuối tháng 6 năm 2023. Nhiều HTX chưa tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ từ cấp trên.
- Bất cập trong chính sách và pháp luật:
- Chính sách hỗ trợ dàn trải, thiếu hiệu quả: Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tuy nhiều nhưng dàn trải, phân tán, chủ yếu lồng ghép, thiếu tập trung, chưa thống nhất, thiếu nguồn lực đảm bảo thực hiện, thậm chí không khả thi. Các chính sách về đất đai, tín dụng, hỗ trợ xây dựng hạ tầng ít được thực hiện. Hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường ở mức rất thấp.
- Quy định pháp luật về đất đai: Luật Đất đai 2013 không quy định giao đất cho tổ chức kinh tế (bao gồm HTX, LHHTX) sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, mà chỉ quy định cho thuê đất. Điều này tạo ra môi trường sản xuất, kinh doanh không bình đẳng với doanh nghiệp.
- Phạm vi điều chỉnh của chính sách: Một số ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện chỉ cho phép doanh nghiệp tham gia, khiến HTX không được tham gia, làm mất đi tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của HTX và hạn chế khả năng mở rộng sản xuất.
- Vấn đề tài sản không chia và phân phối lợi nhuận: HTX thường chia hết lợi nhuận mà không tích lũy, dẫn đến thiếu nguồn lực để phát triển. Việc trích lập tài sản không chia (một đặc trưng quan trọng của HTX theo nguyên tắc của ICA) còn rất ít, làm cho tài sản không chia của HTX không phát triển và không thu hút được thành viên.
- Tổ hợp tác (THT): Nghị định 77/2019/NĐ-CP không quy định về đăng ký THT, dẫn đến nhiều THT hoạt động không đăng ký, tiềm ẩn rủi ro và gây khó khăn cho việc triển khai chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Thiếu các quy định, chính sách định hướng THT phát triển thành HTX, tạo mối liên kết giữa các tổ chức KTTT từ thấp đến cao.
- Hạn chế trong công tác quản lý nhà nước: Công tác quản lý nhà nước đối với KTTT, HTX ở cấp địa phương chưa được quy định cụ thể, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức đoàn thể chưa thống nhất, cụ thể hóa. Hiệu quả phối hợp chưa cao, việc theo dõi, giám sát tình hình phát triển KTTT, HTX chưa thường xuyên.
- Nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều cấp ủy đảng, chính quyền chưa thực sự quan tâm, thiếu quyết liệt. Tư duy huy động, đầu tư nguồn lực chưa sát thực tế, chưa đúng yêu cầu và chưa phù hợp với sự phát triển của KTTT, HTX. Việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung chính sách chưa kịp thời. Nhận thức của người dân và thành viên HTX về mô hình KTTT còn hạn chế, dẫn đến sự ngần ngại tham gia và góp vốn.
Những hạn chế này cho thấy cần có những giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ hơn để KTTT, HTX Việt Nam phát triển đúng với tiềm năng và vai trò của nó.
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển hợp tác xã từ các quốc gia tiên tiến là một cách tiếp cận hiệu quả để rút ra bài học và đề xuất các giải pháp phù hợp cho Việt Nam.
Mô hình và Chính sách hỗ trợ Hợp tác xã tại Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những quốc gia có phong trào HTX phát triển mạnh mẽ và bền vững, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Tập trung vào chuỗi giá trị và nâng cao giá trị sản phẩm: HTX nông nghiệp Nhật Bản (JA) chú trọng hình thành và phát triển các chuỗi liên kết, nâng cao giá trị sản phẩm thông qua chế biến, tiêu thụ trực tiếp và bán hàng để tối đa hóa lợi ích cho thành viên. Khoảng 90% sản lượng lúa gạo được tiêu thụ qua HTX, cho thấy vai trò chi phối của HTX trong phân phối nông sản.
- Đào tạo và nâng cao chất lượng nhân lực: Nhật Bản đặc biệt đề cao vấn đề giáo dục, đào tạo nhân lực cho HTX. Các tổ chức Liên hiệp HTX cấp tỉnh, quốc gia đều coi trọng nhiệm vụ này, thuê người có trình độ chuyên môn, năng lực để quản lý HTX, đảm bảo sự phát triển bền vững.
- Quá trình hợp nhất và coi trọng chất lượng: Lịch sử phát triển HTX nông nghiệp Nhật Bản cho thấy quá trình hợp nhất nhiều lần để hình thành các HTX quy mô lớn hơn (HTX cấp quận), giảm số lượng HTX từ 12.050 năm 1961 xuống còn 708 năm 2015, nhưng số thành viên mỗi HTX lại tăng lên. Điều này phản ánh sự coi trọng chất lượng hơn số lượng trong phát triển HTX.
- Chính sách hỗ trợ đa dạng: Các HTX cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho nông dân như tín dụng, bảo hiểm rủi ro, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, và sử dụng tập thể máy móc thiết bị. Các dịch vụ này còn mở rộng sang phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa, du lịch và thương mại. Chính phủ Nhật Bản cũng có chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất thông qua ngân hàng đất đai, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp và phát triển sản xuất có chọn lọc, nâng cao chất lượng nông sản.
Bài học cho Việt Nam từ Nhật Bản là sự cần thiết phải tập trung vào việc xây dựng chuỗi giá trị, nâng cao năng lực quản lý và đào tạo nhân lực cho HTX, đồng thời khuyến khích hợp nhất các HTX nhỏ lẻ để tăng quy mô và sức cạnh tranh.
Mô hình và Chính sách hỗ trợ Hợp tác xã tại Hàn Quốc
Hàn Quốc là một ví dụ điển hình về sự phát triển mạnh mẽ của các HTX, đặc biệt là HTX tiêu dùng và HTX nông nghiệp, với sự hỗ trợ đáng kể từ chính phủ.
- HTX tiêu dùng và mô hình kinh tế xã hội: Các HTX tiêu dùng lớn và hiệu quả như iCOOP, Hansalim, Dure Consumer Cooperative, và Happy Coop là những ví dụ thành công trong việc kết hợp hài hòa lợi ích của người sản xuất, người lao động và người tiêu dùng. iCOOP Korea, được thành lập bởi người tiêu dùng và nhà sản xuất, tập trung vào sản xuất và tiêu dùng có đạo đức, xây dựng hệ thống thực phẩm an toàn, tăng lợi nhuận sản phẩm nông nghiệp thông qua giao dịch trực tiếp giữa nông dân và người tiêu dùng, giảm chi phí sản xuất và tăng độ tin cậy sản phẩm. Ngoài ra, Hàn Quốc còn phát triển các mô hình doanh nghiệp xã hội (DNXH) như mô hình tự cung tự cấp và mô hình SEPA, tập trung vào việc tạo việc làm cho người thiệt thòi và cung cấp dịch vụ xã hội.
- Chính sách hỗ trợ toàn diện: Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của HTX và DNXH. Luật khung về hợp tác xã (2012) đã mở ra trang mới cho các HTX quy mô vừa và nhỏ thuộc nhiều lĩnh vực. Các Kế hoạch tổng thể về hợp tác xã (2014-2016, 2017) được giới thiệu để xây dựng môi trường thuận lợi cho HTX tăng trưởng, tập trung vào tăng cường quyền tự chủ, nâng cao nhận thức, tạo việc làm và củng cố thị trường HTX. Chính phủ cũng hỗ trợ thông qua các chương trình phát triển nông thôn thông minh, ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa nông nghiệp. Liên đoàn Quốc gia Hợp tác xã Nông nghiệp Hàn Quốc (NACF) đóng vai trò nòng cốt, đại diện cho các HTX nông nghiệp và người sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực cho HTX nông nghiệp, xây dựng mô hình HTX kiểu mới và hợp tác kinh doanh.
- Luật hóa chính sách hỗ trợ: Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy sự cần thiết phải luật hóa các chính sách hỗ trợ, tạo khuôn khổ pháp lý thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa (trong đó có HTX) phát triển, thông qua các luật và đạo luật chuyên biệt.
Bài học từ Hàn Quốc cho thấy tầm quan trọng của việc phát triển các HTX đa dạng, đặc biệt là HTX tiêu dùng gắn kết chặt chẽ với sản xuất, và sự cần thiết của một khung pháp lý toàn diện cùng các chính sách hỗ trợ có trọng tâm, được luật hóa để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Mô hình và Chính sách hỗ trợ Hợp tác xã tại Đức
Đức có một khu vực kinh tế HTX vững mạnh và phát triển rộng khắp các lĩnh vực, với lịch sử hơn 150 năm hình thành và phát triển.
- Hoạt động đa dạng và đa chức năng: HTX nông nghiệp ở Đức hoạt động đa dạng và đa chức năng, bao gồm các dịch vụ kinh doanh như quản lý thị trường, vệ sinh, cung cấp vật liệu xây dựng, sấy khô và đóng gói sản phẩm, cung cấp nhiên liệu. Hàng trăm HTX nông nghiệp cũng đồng thời thực hiện hoạt động tín dụng và ngân hàng. Các loại hình HTX phổ biến bao gồm HTX nông nghiệp, tài chính, mua bán hàng hóa, tiêu dùng và nhà ở.
- Đóng góp kinh tế và thị phần: HTX tạo ra hàng triệu việc làm trực tiếp và có thị phần cao đối với nhiều sản phẩm nông nghiệp quan trọng như thịt chế biến, sản phẩm sữa và rượu.
- Chính sách hỗ trợ chung và bình đẳng: Các HTX ở Đức được coi là một loại hình doanh nghiệp, hoạt động như các doanh nghiệp khác và có quyền, nghĩa vụ bình đẳng trong lĩnh vực nông nghiệp. Các chính sách hỗ trợ và khuyến khích cho nông nghiệp áp dụng chung cho tất cả các đối tượng tham gia, không dành ưu đãi thuế đặc biệt chỉ vì là HTX. Nhà nước ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn và hỗ trợ thông qua các chương trình bảo vệ môi trường nông nghiệp, ưu đãi thuế cho đầu tư năng lượng tái tạo, và đào tạo nông dân.
- Hướng tới thành viên và lợi ích kinh tế: Nguyên tắc hoạt động của HTX Đức là phục vụ thành viên là trên hết, dựa trên ba nguyên tắc cơ bản. Lợi ích chính của thành viên đến từ các sản phẩm và dịch vụ mà họ khó hoặc tốn kém hơn khi tự thực hiện. HTX không thay thế kinh tế hộ gia đình mà được thành lập để mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp và lâu dài cho thành viên.
- Tự do kinh doanh và thu hút vốn: HTX có quyền tự do kinh doanh trên thị trường trong nước và quốc tế, bao gồm cả việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng không phải thành viên, nhưng lợi ích của thành viên luôn được ưu tiên. Mặc dù tuân thủ nguyên tắc \"một thành viên, một phiếu\", HTX Đức cũng cho phép các nhà đầu tư (pháp nhân, cá nhân) góp vốn, thậm chí là \"thành viên đầu tư\" không sử dụng dịch vụ của HTX, miễn là việc này mang lại lợi ích cho các thành viên hiện có.
Bài học từ Đức là sự đa dạng hóa hoạt động của HTX, coi HTX như một loại hình doanh nghiệp bình đẳng với các loại hình khác, tập trung vào lợi ích kinh tế trực tiếp cho thành viên, và linh hoạt trong việc thu hút vốn đầu tư mà vẫn duy trì nguyên tắc dân chủ.
Mô hình và Chính sách hỗ trợ Hợp tác xã tại Canada
Canada là một quốc gia có khu vực hợp tác xã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở tỉnh Quebec, nơi HTX đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội.
- Đa dạng loại hình HTX: Canada có nhiều loại hình HTX, bao gồm HTX tín dụng (credit unions), HTX nông nghiệp, HTX tiêu dùng, HTX nhà ở, và đặc biệt là HTX đa bên (multi-stakeholder cooperatives).
- HTX tín dụng (Credit Unions): Đây là các tổ chức tài chính hoạt động theo mô hình hợp tác xã, thuộc sở hữu và kiểm soát của thành viên. Không như ngân hàng truyền thống tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông, HTX tín dụng tái đầu tư lợi nhuận vào cộng đồng dưới hình thức phí thấp hơn, lãi suất tốt hơn và dịch vụ được cải thiện. Chúng là các tổ chức phi lợi nhuận ưu tiên phục vụ nhu cầu tài chính của thành viên và hỗ trợ cộng đồng địa phương.
- HTX đa bên (Multi-stakeholder cooperatives): Mô hình này cho phép các nhóm đa dạng (người tiêu dùng, người lao động, tổ chức địa phương) cùng hợp tác để đáp ứng các nhu cầu xã hội hoặc môi trường cụ thể, ví dụ như chăm sóc tại nhà, năng lượng tái tạo. OUR Eco Village Cooperative là một ví dụ điển hình, tích hợp các thành phần nhà ở, người lao động và nhà sản xuất trong một cấu trúc duy nhất, nhằm thiết kế toàn diện các khía cạnh xã hội, môi trường và kinh tế. Mặc dù mô hình này có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận bảo hiểm và tài chính truyền thống do tính độc đáo, nhưng nó cho phép cân bằng các lợi ích khác nhau của các bên liên quan.
- Chính sách phát triển và hỗ trợ: Chính sách phát triển HTX của Quebec tập trung vào việc hiện đại hóa khung pháp lý, cải thiện khả năng huy động vốn, nâng cao dịch vụ tư vấn và tích hợp hành động của chính phủ. Chính phủ Canada cũng hỗ trợ phát triển HTX thông qua các dự án giúp Việt Nam xây dựng nhiều mô hình HTX hiệu quả. HTX ở Canada được đánh thuế như bất kỳ doanh nghiệp nào dựa trên thu nhập ròng.
Bài học từ Canada cho thấy tiềm năng của các HTX đa bên trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp và tích hợp lợi ích đa dạng, cũng như tầm quan trọng của các tổ chức tài chính hợp tác (HTX tín dụng) trong việc cung cấp dịch vụ tài chính cho thành viên. Ngoài ra, việc chính sách hỗ trợ không chỉ tập trung vào tín dụng mà còn vào việc tạo khuôn khổ pháp lý và dịch vụ tư vấn cũng là một điểm đáng học hỏi.
Khánh Hòa sở hữu những đặc điểm kinh tế - xã hội và tiềm năng phát triển vượt trội, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của kinh tế tập thể, hợp tác xã.
- Vị trí vai trò trung tâm: Là đô thị hạt nhân, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Khánh Hòa. Giữ vai trò tăng trưởng quan trọng, cửa ngõ hội nhập quốc tế của tỉnh. Quy hoạch chung đến năm 2040 có tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 26.736 ha, với định hướng phát triển đô thị thông minh, hạ tầng đồng bộ, và là trung tâm giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe chất lượng cao của vùng và cả nước.
- Tăng trưởng kinh tế ấn tượng: Kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm của Khánh Hòa có tốc độ tăng trưởng nằm trong top đầu cả nước. Các lĩnh vực công nghiệp, du lịch, xây dựng, xuất khẩu và thu ngân sách đều đạt kết quả đáng khích lệ. GRDP bình quân đầu người của Khánh Hòa dự kiến đạt 189 triệu đồng vào năm 2030.
- Ngành kinh tế mũi nhọn: Du lịch và dịch vụ là ngành kinh tế mũi nhọn, giữ vai trò chủ yếu trong sự phát triển kinh tế của Khánh Hòa, đặc biệt là nơi được biết đến là một trong những điểm du lịch biển nổi bật của Việt Nam. Ngành dịch vụ được định hướng phát triển chất lượng cao bao gồm du lịch, tài chính, thương mại, logistics, giáo dục và phát triển đô thị.
- Tiềm năng du lịch biển đảo: được mệnh danh là thiên đường du lịch với bờ biển kéo dài 385 km và hệ thống gần 200 đảo lớn nhỏ ven bờ, cùng khí hậu ôn hòa quanh năm. Vịnh đã được công nhận là thành viên chính thức của Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới, và Hòn Mun là khu bảo tồn biển đầu tiên ở Việt Nam với rạn san hô và sinh vật biển nguyên sơ. Lượng khách đến ngày càng tăng, ước tính đến hết tháng 12/2024, toàn tỉnh đón khoảng 12 triệu lượt khách lưu trú, tổng doanh thu du lịch đạt 55.000 tỷ đồng. Quý I/2025, du lịch - Khánh Hòa tiếp tục tăng trưởng tốt, đón hơn 2,5 triệu lượt khách lưu trú, tổng doanh thu đạt hơn 13.850 tỷ đồng.
- Các ngành kinh tế chủ lực khác: Ngoài du lịch, Khánh Hòa còn có tiềm năng lớn trong kinh tế biển (thủy sản, khai thác mỏ, đóng tàu, cảng), nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), và công nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và thực phẩm chất lượng cao, công nghiệp cơ khí chế tạo công nghệ cao (chủ đạo là đóng tàu), năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, và công nghiệp điện được ưu tiên phát triển.
- Các loại hình HTX hiện có và tiềm năng: Khánh Hòa hiện có các loại hình HTX đa dạng như HTX thương mại dịch vụ, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vệ sinh môi trường, vận tải. Liên minh HTX tỉnh Khánh Hòa cũng đã và đang thúc đẩy phát triển các mô hình HTX du lịch nông nghiệp, nuôi biển công nghệ cao. Các HTX tiêu biểu như HTX Sản xuất rau an toàn Ninh Đông, Quỹ Tín dụng nhân dân Ninh Hòa, HTX Nông nghiệp Diên Lộc và các HTX vận tải tại đã chứng minh hiệu quả hoạt động.
Bên cạnh những tiềm năng to lớn, kinh tế tập thể, hợp tác xã tại Khánh Hòa cũng đối mặt với các thách thức đặc thù cần được giải quyết để phát triển bền vững.
- Cạnh tranh thị trường và đầu ra sản phẩm: Thị trường hàng hóa và sản phẩm rất cạnh tranh, các sản phẩm của HTX thường thiếu đầu ra ổn định. Mặc dù có nhiều sản phẩm OCOP, việc xây dựng thương hiệu và kênh phân phối bền vững vẫn còn là thách thức.
- Hạn chế về vốn và tiếp cận chính sách: Nhiều HTX chưa tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ từ cấp trên. Các chính sách hỗ trợ tuy có nhưng còn dàn trải, thiếu tập trung, và khó tiếp cận trên thực tế.
- Nguồn nhân lực và năng lực quản lý: Thiếu cán bộ chuyên trách về KTTT, HTX ở cấp huyện, xã, dẫn đến thiếu đầu tư chuyên sâu. Năng lực và trình độ của một số lãnh đạo HTX còn hạn chế, chưa chủ động nghiên cứu Luật HTX và các chính sách hỗ trợ, vẫn còn tư tưởng trông chờ vào Nhà nước. Kinh nghiệm quản lý, cạnh tranh thị trường và định hướng phát triển còn yếu.
- Thách thức riêng của HTX du lịch:
- Ảnh hưởng từ yếu tố bên ngoài: Ngành du lịch, đặc biệt là du lịch biển, dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như dịch bệnh (ví dụ COVID-19), dẫn đến khó khăn cho các khách sạn, khu nghỉ dưỡng, và các HTX du lịch.
- Quản lý và quy hoạch: Sự phát triển mạnh mẽ của du lịch cũng gây áp lực và khó khăn trong công tác quản lý nhà nước. Việc quy hoạch còn hạn chế, đầu tư chưa đầy đủ, và hoạt động xúc tiến du lịch chưa chuyên nghiệp.
- Tính bền vững và xung đột lợi ích: Du lịch phát triển nhanh nhưng chưa thực sự bền vững, có xung đột giữa khai thác tài nguyên tự nhiên và văn hóa cạn kiệt vì lợi ích ngắn hạn. Việc bảo vệ thương hiệu \" - điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện\" đòi hỏi tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững, nhưng thường bị sức ép của lợi ích trước mắt.
- Du lịch cộng đồng: Mặc dù có nhiều tiềm năng, việc xây dựng các điểm du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh vẫn còn khá yếu. Thách thức bao gồm việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực địa phương (kỹ năng giao tiếp, quản lý homestay, marketing, ngoại ngữ).
- Thách thức của HTX thủy sản: Các HTX khai thác thủy sản chủ yếu hoạt động đánh bắt gần bờ theo phương pháp truyền thống, khả năng khai thác giới hạn và thiếu sự đổi mới công nghệ. Tốc độ tăng vốn và doanh thu còn khiêm tốn so với tiềm năng thị trường.
Những thách thức này đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện, kết hợp các giải pháp về chính sách, tài chính, nhân lực và thị trường, đồng thời học hỏi kinh nghiệm quốc tế để xây dựng các mô hình HTX hiệu quả, bền vững tại Khánh Hòa.
Dựa trên tiềm năng và thách thức của Khánh Hòa, cùng với các bài học kinh nghiệm quốc tế, báo cáo đề xuất mô hình phát triển kinh tế tập thể theo hướng đa ngành, liên kết chuỗi giá trị và các cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể.
Mô hình HTX đề xuất cho Khánh Hòa là mô hình HTX đa ngành, đa bên, tập trung vào chuỗi giá trị, đặc biệt trong các lĩnh vực du lịch, nông nghiệp công nghệ cao và kinh tế biển. Mô hình này học hỏi từ kinh nghiệm của Canada về HTX đa bên, Hàn Quốc về HTX tiêu dùng gắn kết sản xuất, và Nhật Bản, Đức về phát triển chuỗi giá trị và sản phẩm chất lượng cao.
- Trọng tâm phát triển:
- Du lịch và dịch vụ: Phát triển các HTX du lịch cộng đồng, cung cấp dịch vụ lưu trú (homestay), ẩm thực địa phương, trải nghiệm văn hóa, tour du lịch sinh thái biển đảo. Các HTX này có thể liên kết với các khu nghỉ dưỡng lớn để cung cấp sản phẩm nông sản sạch, hải sản tươi sống, hoặc dịch vụ bổ trợ.
- Nông nghiệp công nghệ cao và sản phẩm OCOP: Tập trung vào các HTX sản xuất rau an toàn (mô hình nhà kính), nuôi trồng thủy sản công nghệ cao (nuôi biển công nghệ cao), chế biến các sản phẩm đặc thù của Khánh Hòa như yến sào, trầm hương, rong nho biển, cà phê, nấm. Các HTX này sẽ xây dựng thương hiệu mạnh cho sản phẩm OCOP, hướng tới thị trường du lịch và xuất khẩu.
- Kinh tế biển: Phát triển các HTX khai thác và nuôi trồng thủy sản bền vững, áp dụng công nghệ mới để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm thiểu tác động môi trường. Liên kết với các HTX chế biến để tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng.
- Cấu trúc đa bên:
- Thành viên sản xuất: Nông dân, ngư dân, nghệ nhân, hộ kinh doanh cá thể.
- Thành viên dịch vụ: Các cá nhân/doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch, vận tải, logistics, chế biến.
- Thành viên tiêu dùng: Cộng đồng dân cư địa phương, du khách.
- Thành viên hỗ trợ/đầu tư: Các tổ chức, cá nhân có thể góp vốn nhưng không nhất thiết sử dụng dịch vụ trực tiếp, nhằm tăng cường nguồn lực tài chính cho HTX (học hỏi từ Đức).
- Hoạt động chính:
- Cung ứng đầu vào tập trung: HTX cung cấp vật tư nông nghiệp, giống cây trồng, con giống, thiết bị, dịch vụ kỹ thuật cho thành viên với giá ưu đãi, đảm bảo chất lượng.
- Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị: HTX đóng vai trò trung tâm trong việc tổ chức sản xuất, kiểm soát chất lượng, chế biến, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm, từ đó nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
- Xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường: HTX chủ động tìm kiếm thị trường, tham gia các sự kiện xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu chung và kênh phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng và du khách.
- Tín dụng nội bộ và hỗ trợ tài chính: HTX triển khai các mô hình tín dụng nội bộ, giúp thành viên tiếp cận vốn dễ dàng hơn cho sản xuất kinh doanh, giảm phụ thuộc vào tín dụng bên ngoài.
- Đào tạo và chuyển giao công nghệ: Tổ chức các khóa đào tạo nâng cao năng lực quản lý, kỹ thuật sản xuất, ứng dụng công nghệ cao, kỹ năng du lịch, marketing cho thành viên.
Để mô hình trên phát triển hiệu quả, cần có các cơ chế và chính sách hỗ trợ đồng bộ từ cấp tỉnh đến địa phương, dựa trên các quy định của Luật HTX 2023 và Nghị định 113/2024/NĐ-CP, kết hợp với kinh nghiệm quốc tế.
Hoàn thiện khung pháp lý và chính sách đặc thù cấp tỉnh:
- Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thực thi Luật HTX 2023 và Nghị định 113/2024/NĐ-CP tại Khánh Hòa, phù hợp với đặc thù kinh tế biển, du lịch và nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh.
- Nghiên cứu và đề xuất cơ chế đặc thù về đất đai cho HTX, đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, nuôi trồng thủy sản và du lịch cộng đồng. Có thể xem xét chính sách giao đất hoặc cho thuê đất dài hạn với ưu đãi rõ ràng, thay vì chỉ thuê đất như hiện nay, để tạo sự bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác.
- Rà soát các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện để đảm bảo HTX có thể tham gia bình đẳng, không bị hạn chế bởi các điều kiện chỉ áp dụng cho doanh nghiệp.
- Xây dựng chính sách khuyến khích HTX trích lập tài sản không chia và tái đầu tư lợi nhuận để tăng cường nội lực và khả năng tích lũy.
- Quy định rõ ràng về đăng ký và quản lý tổ hợp tác, tạo hành lang pháp lý cho THT phát triển và dễ dàng chuyển đổi lên HTX khi đủ điều kiện.
- Hỗ trợ tài chính và tiếp cận vốn:
- Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển HTX cấp tỉnh: Với nguồn vốn từ ngân sách tỉnh và huy động xã hội hóa, quỹ sẽ cung cấp các khoản vay ưu đãi (lãi suất thấp, thời hạn dài, thủ tục đơn giản) cho các HTX hoạt động trong các lĩnh vực ưu tiên như du lịch cộng đồng, nông nghiệp công nghệ cao, nuôi biển, và chế biến sản phẩm OCOP.
- Đa dạng hóa nguồn vốn: Khuyến khích các tổ chức tín dụng địa phương (như Quỹ Tín dụng nhân dân Ninh Hòa) mở rộng các gói tín dụng phù hợp cho HTX, đồng thời hướng dẫn HTX xây dựng phương án kinh doanh hiệu quả để tiếp cận vốn từ các ngân hàng thương mại.
- Chính sách khuyến khích thành viên đầu tư: Tạo cơ chế khuyến khích các cá nhân, tổ chức có tiềm lực tài chính tham gia góp vốn vào HTX dưới hình thức thành viên đầu tư, học hỏi từ kinh nghiệm của Đức, đảm bảo quyền lợi và sự tham gia của họ mà không làm mất đi nguyên tắc dân chủ của HTX.
- Đào tạo chuyên sâu: Tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng định kỳ cho cán bộ quản lý và thành viên HTX về quản trị kinh doanh, tài chính, kế toán, marketing, chuyển đổi số, kỹ thuật sản xuất tiên tiến (VietGAP, GlobalGAP), quản lý chất lượng sản phẩm, và kỹ năng du lịch (ngôn ngữ, nghiệp vụ du lịch, quản lý homestay).
- Chương trình tham quan, học tập: Tổ chức các chuyến đi thực tế học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình HTX thành công trong nước (như các HTX nông nghiệp hiệu quả ở Đồng Tháp, Lâm Đồng) và quốc tế (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Canada). Tập trung vào các mô hình HTX đa ngành, chuỗi giá trị và HTX tín dụng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách: Bố trí và đào tạo cán bộ chuyên trách về KTTT, HTX tại các phòng ban cấp tỉnh và cấp huyện, xã để đảm bảo công tác quản lý nhà nước được thực hiện sâu sát, hiệu quả hơn.
- Hỗ trợ xây dựng thương hiệu và tiêu chuẩn: Hỗ trợ HTX đăng ký nhãn hiệu tập thể, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm OCOP và sản phẩm đặc thù của Khánh Hòa. Hỗ trợ HTX đạt các chứng nhận chất lượng (VietGAP, GlobalGAP) để nâng cao uy tín sản phẩm.
- Tổ chức và tham gia sự kiện: Tạo điều kiện cho HTX tham gia các hội chợ, triển lãm thương mại trong và ngoài nước, các sự kiện xúc tiến du lịch để quảng bá sản phẩm và dịch vụ.
- Phát triển kênh phân phối đa dạng: Hỗ trợ HTX xây dựng các kênh phân phối trực tiếp (cửa hàng giới thiệu sản phẩm, bán hàng trực tuyến) và gián tiếp (liên kết với siêu thị, nhà hàng, khách sạn, công ty du lịch). Khuyến khích các HTX du lịch liên kết chặt chẽ với các khu nghỉ dưỡng lớn để cung cấp sản phẩm và dịch vụ địa phương.
- Ứng dụng công nghệ số: Hỗ trợ HTX ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, sản xuất, và tiếp thị sản phẩm (ví dụ: xây dựng website, sử dụng mạng xã hội, thương mại điện tử) để mở rộng thị trường và tiếp cận khách hàng.
- Khuyến khích đầu tư công nghệ: Có chính sách ưu đãi cho HTX đầu tư vào công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp (nhà kính, nông nghiệp thông minh), nuôi trồng thủy sản (nuôi biển công nghệ cao), và chế biến sản phẩm để nâng cao năng suất, chất lượng và giảm chi phí.
- Hợp tác nghiên cứu và chuyển giao: Thúc đẩy hợp tác giữa HTX với các viện nghiên cứu, trường đại học (đặc biệt là các trung tâm R&D tại ) để chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, giống mới, quy trình sản xuất tiên tiến.
- Tuyên truyền, nâng cao nhận thức: Tăng cường công tác tuyên truyền về lợi ích, bản chất và mô hình HTX kiểu mới để thay đổi nhận thức của người dân và khuyến khích họ tham gia góp vốn, góp sức vào HTX.
- Tăng cường phối hợp quản lý: Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các sở, ban, ngành cấp tỉnh và chính quyền địa phương trong việc quản lý, hỗ trợ và phát triển KTTT, HTX.
- Đánh giá và giám sát: Thực hiện đánh giá, xếp loại HTX định kỳ, công khai kết quả để kịp thời biểu dương các mô hình hiệu quả và có biện pháp hỗ trợ, củng cố hoặc giải thể các HTX hoạt động kém hiệu quả.
Kinh tế tập thể, hợp tác xã đã và đang khẳng định vai trò không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhờ sự quan tâm và các chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, khu vực này vẫn còn đối mặt với nhiều hạn chế về năng lực nội tại, tiếp cận nguồn lực và hiệu quả chính sách.
Khánh Hòa, với tiềm năng to lớn về du lịch, kinh tế biển và nông nghiệp công nghệ cao, có đầy đủ điều kiện để phát triển mạnh mẽ các mô hình HTX kiểu mới. Tuy nhiên, các thách thức đặc thù về cạnh tranh thị trường, nguồn nhân lực, và sự chưa đồng bộ của chính sách cần được giải quyết một cách căn cơ.
Từ phân tích thực trạng trong nước và kinh nghiệm quốc tế từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Canada, báo cáo đề xuất mô hình HTX đa ngành, đa bên, liên kết chuỗi giá trị là hướng đi chiến lược cho Khánh Hòa. Mô hình này không chỉ giúp HTX khai thác tối đa lợi thế địa phương trong du lịch, nông nghiệp công nghệ cao và kinh tế biển, mà còn tăng cường liên kết giữa các thành phần kinh tế, tạo ra giá trị gia tăng bền vững.
Để hiện thực hóa mô hình này, các kiến nghị chính bao gồm:
- Hoàn thiện và cụ thể hóa khung pháp lý cấp tỉnh: Ban hành sớm các văn bản hướng dẫn chi tiết Luật HTX 2023 và Nghị định 113/2024/NĐ-CP phù hợp với đặc thù của Khánh Hòa, đặc biệt là các chính sách về đất đai và tham gia ngành nghề kinh doanh có điều kiện cho HTX.
- Đa dạng hóa và đơn giản hóa cơ chế tài chính: Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển HTX cấp tỉnh, đơn giản hóa thủ tục tiếp cận vốn, và khuyến khích các hình thức góp vốn đa dạng, bao gồm cả thành viên đầu tư, để tăng cường năng lực tài chính cho HTX.
- Đầu tư mạnh vào phát triển nguồn nhân lực: Triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu về quản lý, kỹ thuật, marketing, chuyển đổi số và nghiệp vụ du lịch cho cán bộ quản lý và thành viên HTX, kết hợp với các chuyến tham quan, học tập kinh nghiệm từ các mô hình thành công trong và ngoài nước.
- Thúc đẩy xúc tiến thương mại và liên kết thị trường: Hỗ trợ HTX xây dựng thương hiệu, tham gia các sự kiện quảng bá, và thiết lập các kênh phân phối đa dạng, đặc biệt là liên kết với các doanh nghiệp du lịch lớn để đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm và dịch vụ của HTX.
- Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ: Khuyến khích và hỗ trợ HTX đầu tư vào công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, và quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh.
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước: Tăng cường tuyên truyền để nâng cao nhận thức về KTTT, HTX trong cộng đồng, đồng thời bố trí cán bộ chuyên trách và tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước để hỗ trợ HTX một cách toàn diện và kịp thời. Bằng việc triển khai đồng bộ các giải pháp này, Khánh Hòa có thể xây dựng một khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã vững mạnh, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững và thịnh vượng của địa phương.
Thực hiện: H.H